Thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương

(Tranh Đông Hồ)

Vịnh tranh Gà Lợn

Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
Gà lợn om sòm rối bức tranh
Rằng vách có tai, thơ có họa
Biết lòng ai đỏ, mắt ai…… xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
Lòng lợn âm dương một tấc thành
Cục tác nữa chi đừng ủn ỉn
Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.”

(Vũ Hoàng Chương )

Trích từ-  Nguyễn Mạnh Trinh

(*) Vũ Hoàng Chương, ngôi sao Bắc Ðẩu của thi ca Việt Nam (1916-1976), tác giả 2 câu thơ truyền khẩu :

Vũ Hoàng Chương – một thi sĩ, cả đời chỉ muốn làm thơ ca tụng tình yêu nhưng lại có những bài thơ ghi lại được những thời điểm khốc liệt của lịch sử.

Những thành ngữ, tục ngữ của dân gian dưới tay nghệ sĩ đã thành đắc địa. Chữ không còn là một nghĩa nữa mà thành nhiều nghĩa, và, sự thâm trầm sâu lắng trong ngữ nghĩa làm bài thơ lột tả được một tâm sự chung mang của cả một thế cuộc tao loạn đầy bất trắc.

Bài thơ được truyền tụng trong thời buổi ấy và cũng là nguyên nhân để những người cầm quyền Cộng Sản bắt giam tác giả. Thi sĩ bị giam tại khám Chí Hòa, sau vì đau yếu nên được thả về nhà và mấy ngày hôm sau thì từ trần, đúng vào ngày 6 Tháng Chín năm 1976.

Trong tù, ông viết bài thơ cuối cùng của đời mình, gửi cho người thân, như linh cảm thấy một chuyến đi đã kề sẵn. Thơ như tiếng khóc nén thầm của những dòng thơ, từ dòng cổ thi từ thuở Nguyễn Du xưa xa, của nỗi niềm “bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” đến nỗi đau mất nước quặn thắt .

 “Thm thoát vào đây tháng đã tròn
Lông h
ng gieo xung nng bng non
M
t manh chiếu lìa hn ngây ngt
Ba chén c
ơm rau xác mi mòn
Ngày t
i ba ăn càng nh v
Ðêm v
 gic ng li thương con
Bao nhiêu n
ước chy qua cu na
Ch
ng d gì phai mt tm son.”


Bài thơ Lửa Từ Bi, là lời của lương tâm nhân loại. Ngôn ngữ, không phải là lời kêu gọi sắt máu, đòi hỏi hy sinh. Mà, chính là cái Dũng của kẻ sĩ, của người hiểu được sự cao cả của quên mình hy sinh. Lửa, không phải là ngọn lửa thiêu đốt, của chiến tranh chết chóc. Mà, ngọn lửa ấy, là ánh sáng để soi rọi hồn người vượt thoát đêm tối. Lửa, kêu gọi yêu thương.

Lửa Từ Bi

“Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen
Tám chín phương nhục thể trần tâm
Hiện thành Thơ, quỳ cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Ðông Tây nhòa lệ ngọc.
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc
Ánh Ðạo Vàng phơi phới đang bừng lên, dâng lên,
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
Người rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây
Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ
Phật Pháp chẳng rời tay
Sáu ngã luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay
Không khí vặn mình theo Khóc òa lên nổi gió
NGƯỜI siêu thăngGiông bão lắng từ đây
Bóng NGƯỜI vượt chín từng mây
Nhân gian mát rượi bóng cây Bồ Ðề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi
Chỗ NGƯỜI ngồi một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét Từ Bi
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro lụa tre dần mục nát
Với thời gian lê vết máu qua điCòn mãi chứ!
Còn Trái Tim Bồ Tát Gội hào quang xuống tận ngục A Tỳ…
Lửa thiêu đốt thịt da. Nhưng vẫn còn lại trái tim Bồ Tát.
Thơ, là tiếng nói của lương tâm tỉnh thức con người.
Lửa, không phải đỏ máu hung tàn mà là
Lửa của tâm linh soi sáng kiếp người.
Lửa làm bừng tình cơn mê.
Lửa thắp chờ bình minh sắp tới.


Mấy chục năm trước, thi sĩ đã làm người tiên tri. Ðã thấy được những thương hải biến thiên. Ðã mô tả những cuộc đời của Việt Nam trôi dạt sau cơn hồng thủy Tháng Tư năm 1975. Trong tập thơ in thời tiền chiến, có bài thơ Phương Xa có những câu mà mấy chục năm sau thấy rõ rệt là tình cảnh của những người Việt liều chết vượt Biển Ðông đi tìm tự do:

“Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng
Xô về Ðông hay giạt tới phương Ðoài
Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng
Lòng cô đơn cay đắng họa dần vơi
Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh
… Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi chơ vơ
Ðời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ…”


Tâm linh nào đã khiến thi sĩ viết lên những vần thơ như thế. Có phải, cái phút linh cầu ấy chỉ đến với những người mà tâm hồn sống lạc lõng như lạc vào một thế giới khác, của cảnh giới hoang sơ, của những nỗi bí nhiệm khó ai hiểu biết được. Cái thảm trạng mà cả triệu người vùi mình trên biển đã được mô tả một cách khá chính xác cả về tâm tư lẫn hiện trạng, có lẽ cũng khá kỳ lạ! Cả triệu thuyền nhân sống lưu lạc khắp mặt địa cầu chắc cũng chia sẻ chung với nhà thơ nỗi niềm ấy.

(*)Thi ca của Vũ Hoàng Chương có nhiều thời kỳ mà lúc nào ông cũng có vị trí của một vì sao Bắc Ðẩu, một văn tinh sáng rực cõi trời. Từ thời tiền chiến, với Say, với Mây, đã chễm chệ trên chiếu văn chương, đã được Hoài Thanh & Hoài Chân ghi tên trong “Thi nhân Việt Nam.” Ðến hai mươi năm văn học miền Nam, cũng Hoa Ðăng, Rừng Phong, Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau, là những châu ngọc của một thời viết về những tâm sự của muôn đời. Và, đến khi chết, những bài thơ tuyệt mệnh cũng là những áng gương thi ca vằng vặc.

Trong Thi Nhân Việt Nam, có những dòng về Vũ Hoàng Chương, những dòng chữ cảm nhận khá chính xác về vóc dáng thi sĩ lừng lẫy một thời:

“Ý giả Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Ðông Á: Cái nghiệp say. Người say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn “hơn” cổ nhân xưa những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhẩy đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say thơ. Vũ Hoàng Chương có cái dụng ý muốn say để làm thơ. Cái dụng ý ấy không khỏi có hại. Nhưng một lần kia, bước chân vào tiệm nhảy, người bỏ quên dụng ý làm thơ ngoài cửa, và lần ấy người đã làm một bài thơ tuyệt hay.

Tôi yêu những vần thơ chếnh choáng, lảo đảo mà nhịp nhàng theo điệu kèn khiêu vũ:


“…Âm ba gờn gợn nhỏ
Ánh sáng phai phai dần
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân
Lui đôi vai, tiến đôi chân
Riết đôi tay, ngả đôi chân
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió…”
Quả là những vần thơ say.

Kể, cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà không hẳn là trụy lạc, mặc dù từ say sưa đến trụy lạc đường chẳng dài chi. Nhưng trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây nó có cái vị chua chát, hằn học và bi đát riêng…”
Sau đó mấy chục năm, khi đã sang sống lưu lạc ở Hoa Kỳ, nhà văn Mai Thảo trong “Chân dung mười lăm nhà văn nhà thơ Việt Nam” đã viết:
“ Một đêm tôi ở lại với ông thật khuya, tới sát giờ giới nghiêm cộng sản. Xã hội thê lương nằm phục bốn chung quanh tường Gác Bút. Ông đưa tôi xem một lá thư Trần Dần. Bị trừng phạt nặng nề, bị treo bút vĩnh viễn, nhà thơ Trần Dần, tài thơ trác tuyệt nhất của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, không được vào Nam, đã gửi cho ông một lá thư đầy những lời lẽ kính trọng như ông vẫn nguyên vẹn là thi bá của cả một thế hệ thi sĩ đã hai miền chia cách suốt 30 năm chiến tranh. Lá thư, tôi chỉ còn nhớ được câu này: “Thơ anh, thơ Ðinh Hùng sống muôn đời với thi ca Việt Nam.” Ðêm đó, cầm lá thư với nỗi kính phục của Trần Dần đối với ngôi sao Bắc Ðẩu miền Nam trên tay, tôi nhìn bạn ngồi thư thái êm đềm trước mặt, đã chia sẻ với thi ca một niềm sung sướng thống khoái vô tả. Kính phục của Trần Dần chắc còn lớn lao hơn gấp bội. Nếu nhà thơ miền Bắc còn nhìn thấy được cõi thơ cuối đời và cái hiện tượng thăng hoa của tâm thức phóng thoát, ở thi sĩ…”

Nhà văn Võ Phiến, với lối viết nhận định văn học khá đặc biệt cũng có những diễn tả biểu hiện chân dung thi sĩ:
“Năm 1982 trên một số báo Ðất Mới ở Seatle (tiểu bang Washington) tưởng niệm Vũ Hoàng Chương, bà Quỳ Hương có nhắc lại câu chuyện hồi năm 1960 tại trung tâm Bút Việt ở Sài Gòn, khi giới thiệu diễn giả là Vũ Hoàng Chương nói về thi ca, Nhất Linh đã gọi Vũ thi sĩ là “ông vua thơ.” Thi sĩ tiền chiến đã bao người xuất hiện và thành danh trên báo Ngày Nay hay từ nhà xuất bản Ðời Nay của Nhất Linh: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận… Giữa bấy nhiêu tài danh, được Nhất Linh chọn phong vương! Vũ Hoàng Chương tiền chiến có cái thành tích đáng sợ chứ…”

Vũ Hoàng Chương cũng như Nhất Linh, những người quan niệm làm thơ cốt cho đẹp, viết truyện trước hết cốt cho được chuyện hay, những người chơi lan ở suối Ða Mê, hút thuốc ở gác Mây… Những người ấy không ngại cái chết vì nước non. Từ một quan niệm nghệ thuật mà suy diễn đến nhân cách, đến thái độ ở đời, thái độ chính trị của người ta, e là chuyện phiêu lưu…”
Ðã có những câu thơ:

“Mặc cho những kẻ mài gươm sắc
Ta chỉ mài riêng ngọn bút này.”
Hay:
“Giờ điểm rồi đây, hởi Tuổi Xanh
Có nghe nét chữ réo tung hoành
Có nghe dòng mực sôi trên giấy
Nhịp bốn ngàn thu Sử Ðấu Tranh nhà”


Nhưng, nổi bật nhất vẫn là những bài thơ tình. Tình yêu đã lên ngôi, với đam mê như ma túy cho đời. Những cõi tình thiết tha, của thời gian không tuổi tác, của không gian vời vợi qua những biến thiên của cuộc nhân sinh. Thơ là những ám ảnh đeo đuổi suốt quãng đời, qua những mốc thời gian đánh dấu bằng kỷ niệm.

Tập thơ “Ta đợi em từ ba mươi năm” mà các môn sinh của ông đã in lại ở hải ngoại có lẽ là một tập thơ mà ông cho rằng có nhiều bài đắc ý nhất của mình. Trong bài mở đầu thi tập, tác giả viết:

“ Ðã từ lâu tôi có ước nguyện gom góp lại những bài thơ “tình yêu” viết trong tuổi hoa, để in thành tập riêng, điều đó sẽ giúp tôi sống trọn vẹn cùng muôn ngàn ảo ảnh xa xưa.

Ðành rằng tình yêu không chịu ràng buộc nào, giới hạn nào – vâng, Tình Yêu vốn không tuổi! – nhưng tôi nhiều khi cảm thấy mình đặc biệt ưa thích những bài thơ “tình yêu” viết từ trước tuổi Bốn Mươi; nghĩa là trước buổi Qua Phân đau đớn, trước cái giờ phút tôi giã biệt hồ Gươm, cửa Bắc để gắng gượng làm thân “con chim đại bàng vỗ cánh dời sang Nam minh.””
Bài thơ “Chờ đợi hoài công” như một lời tụng ca của trái tim cho một tình yêu muôn tuổi. Ba mươi năm, quá dài cho một đời người, nhưng lại thật ngắn, với cuộc thi ca chép bằng ngôn ngữ bất diệt:


“Ta đợi em từ ba mươi năm
Uổng hoa phong nhụy hoài đêm rằm
Heo may chớm đã lên mùa gió
Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chỗ nằm
Cúc tả tơi vàng mộng xác xơ
Hiên sương ngõ lá vẫn trông chờ
Ðêm dài quạnh quẽ đôi song lớn
Nguyệt đọng vòng tay lùa giấc mơ
Ngai trống vàng son lợt sắc rồi
Lòng ta Hoàng Hậu chẳng về ngôi
Hồ ly không hiện người không đến
Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi…”

Viết về Vũ Hoàng Chương, chỉ một bài thôi không đủ. Bởi, trong cái thế giới vừa đơn sơ vừa phức tạp, vừa khinh bạc vừa yêu đời, vừa sống của một đời sống nào chỉ có trong cổ tích nhưng lại dấn thân vào cuộc. Cũng như, thơ có lúc gọt giũa kiêu sa nhưng lại có lúc bình dị của ngữ ngôn thường nhật, khi thì là thơ tự do phóng túng nhưng lúc là những bài Ðường thi vần điệu nghiêm túc ý nghĩa thâm trầm. Dù là thơ “nhị thập bát tú” cô đọng hay thơ “truyền Kiều” châu ngọc, hoặc thơ lục bát, bảy chữ, tám chữ thời “Thơ mới” ngày nào, tất cả đều là những tìm kiếm của một đời thi thánh. Và, ở ngôi Bắc Ðẩu của thi ca Việt Nam, suốt một chặng đường mấy chục năm, để đến lúc mất, thơ vẫn nở hoa trên mộ như bài thơ nào truyền tụng:


“Ta ngắm trông vào cái chính ta
Hồn xanh trong nếp áo thu già
Tay kia từng níu trời cao mãi
Nay chống ô chờ đất nở hoa.”


Vâng thơ đã nở hoa trên mộ phần thi sĩ, như người đời đã thấy một sự lạ sau ba tháng chôn cất ở nghĩa trang. Nhưng, ở một liên tưởng nào, thơ nở hoa muôn đời trên thi ca không tuổi của cõi người…

Nguyễn Mạnh Trinh

https://www.facebook.com/262356477111414/photos/a.262360963777632.82558.262356477111414/263554090324986/?type=3

  • Xin mời đọc thêm những thi phẩm khác của GS Vũ Hoàng Chương trên trang nhà của GS NT Trần Huy Bích =

http://tranhuybich.blogspot.com/2016/07/mot-bai-tho-ngu-y-that-ham-suc-cua-thi.html#more

http://tranhuybich.blogspot.com/2016/11/gioi-thieu-12-bai-tho-oc-lai-nguoi-xua.html#more

Scroll to TOP