Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời,
Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi máng lừa.
Trong hang Belem ánh sáng tỏa lan tưng bừng,
nghe trên không trung tiếng hát thiên thần vang lừng.
Lần cuối, nghe Thánh ca Giáng sinh
Là mùa Đông năm 1974 nơi xứ Bưởi
Đầu tháng 12 năm 1976
Hai ngàn tù Miền Nam
Bước xuống tàu Hồng Hà
Lưu đày ra xứ Bắc
Mùa Đông Hoàng Liên Sơn
Lạnh buốt óc, nhức tim
Lao động khổ sai nặng nhọc
Ăn khoai sắn cầm hơi
Ăn cả củ chuối luộc chấm muối
Cuối năm 1977
Nhân sĩ Cao Đài Hồ Đắc Trung
Ra đi không bao giờ trở lại
Mùa Đông dưới chân rặng Trường Sơn
Sương mù ẩm thấp
Sức lực mỏi mòn đói khổ
Chết đói như chết dịch
Nhân sĩ Miền Nam
Vũ Tiến Tuân, Lưu Đình Việp
Đại tá Nguyễn Văn Của
” Thượng đồi chè ” yên nghĩ đã từ lâu
Giáng Sinh trên đất Mỹ lưu ly
Nhìn về quê nhà nước Việt mến yêu
Lũ lụt thiên nhiên trời hành
Lại thêm xã lũ do người làm
Dân tình khốn khổ điêu linh
Có những kẻ lòng lim, dạ đá
Quên hết những ngày trốn chạy
Ách nạn việt cọng thất thần
Trơ tráo quảng cáo du lịch VN
” Quê hương ta đổi mới từng ngày ”
Mọi thú ăn chơi đều có cả
Có xe ” có giường nằm ” đi du lịch
Có Rạp chiếu bóng, ” có giường năm ” xem
Mồ cha bọn vô tri khốn nạn
Chúng trốn chạy sớm
Không biết gì sự ác độc việt cọng
Nơi hải ngoại vênh vang
Cả tiếng khuyên thiên hạ
” Thù oán nên cởi, không nên buộc ”
” Xóa bỏ hận thù – Tâm bình, thế giới bình ”
Chúng tụng kinh Phật MỘT CHIỀU
Che dấu thái độ hèn nhát, đạo đức giả
Kỳ thật là ngầm bưng bô việt cọng
Lăm le theo đóm ăn tàn
Quân cán chánh VNCH
Vì Đại nghĩa Dân tộc
Thù oán có thể bỏ qua, nhưng không quên
Phải ghi nhớ để đừng bao giờ lầm lạc nữa
Nguyễn Nhơn
Những Mùa Đông Hoàng Liên – Trường Sơn
MÙA ĐÔNG HOÀNG LIÊN SƠN
Cuối Thu trên đất Mỹ, trời thấm lạnh
Nhớ về mùa Đông Hoàng Liên Sơn
Cuối tháng chạp, một chín bảy sáu
Hai ngàn “cải tạo viên” Miền Nam
Đáp tàu Hồng Hà ra Bắc “đi du học”
Trên sông Lòng Tàu, tàu trôi êm ả
Cửa biển Cần Giờ lướt qua lúc chiều buông
Một bạn tù lắc lư thổ huyết láng lay
Trên chiếc tàu sóng vùi, gió vập lúc đêm về
Trong âm u, bỗng hiện lên ánh hào quang
Quanh thân người tù nho nhã, hiền lành
Người tu sĩ thánh thiện Nguyễn Văn Thuận
Trong cõi mông lung, người tù thấy lòng êm ả
Mường tượng ánh sáng kia soi chiếu đường về
Đổ bộ Bãi Cháy, Hải Phòng
Sau ba ngày đêm lắt lay trên Biển Đông
Một nửa nhắm Cao Bằng, Lạng Sơn thẳng tiến
Một nửa rẻ về Tây Bắc Hoàng Liên Sơn
Trung tâm Cải tạo Trung ương số 1, Lào Kay
Mùa Đông năm ấy thật là khắc nghiệt
Ngày khổ sai trên đỉnh đồi gió lộng rét căm căm
Đêm về khí núi lạnh buốt xương, nhức óc
Suốt canh trường dựa cột ngồi run rẩy
Sức mỏn, hơi mòn, chợp mắt lúc tàn canh
Ngày tháng trôi qua biền biệt đến cuối Đông
Một buổi sáng, tỉnh giấc nhìn ra song cửa
Hoa bang nở rộ, trắng núi đồi
Mùa Xuân đến đem lại sức hồi sinh
Cửa tù mở, nhìn phía xa xa
Đỉnh Fansipan tuyết phủ, lắp lánh ánh thiều quang
Cụm mây trắng lững lờ trôi như tranh thủy mạc
Lòng người tù êm ả giữa ánh xuân quang
Nguyễn Nhơn
MÙA ĐÔNG DƯỚI RẶNG TRƯỜNG SƠN
Mùa Đông Trường Sơn
Có nắng vàng hiu hắt
Tiếng tù ca ủ ê
“Suối A mai chảy dài ra Bến Ngọc
Đường ta đi qua Dốc Phục Linh
Đường ta đi, đường nghĩa, đường tình
Đường đi hạnh phúc, chúng mình đấp xây”(*)
Hạnh phúc nào đâu thấy
Những tang thương và tủi nhục
Của người thua trận ngậm ngùi
Đào đấp con lộ ngoằn ngoèo
Lượn quanh chân núi
Để xe trâu đưa đón
Những người vợ tù Miền Nam
Ngàn dặm tìm gặp mặt chồng
“Trèo đèo, vượt suối, sang sông
Gánh gạo nuôi chồng, nước mắt rơi rơi”(**)
Nhìn “những gót chân ngày xa xưa
Sợ lấm trong bùn khi mưa”(***)
Ngày nay đâu còn nữa
Chỉ còn những bàn chân chai sạn
Tảo tần nuôi bầy con nhỏ dại
Chắt chiu chút ít quà
Mỗi năm đôi lần
Gởi bù đắp cho chồng, tù nơi xa
Mùa Đông Trướng Sơn lạnh lắm
Chiếc áo ngự hàn năm cũ
Biết chồng có đủ ấm hay không?
Nguyễn Nhơn
(*) Thiếu tá Đạt, Tiểu khu Bình Tuy
(**) Thơ Bình Dương
(***) Nhạc: Tôi đưa em sang sông