Truyện của Nguyễn Phục Hưng
Căn phố của ông bà Tuyên nằm ngay cuối dãy, nhìn ra con kinh thoát nước. Xa xa là những căn nhà chọc trời của Houston. Tháng sáu, Houston mưa nhiều như Sài gòn. Mưa rào, ào xuống rất nhanh và ngưng lại cũng rất nhanh, y hệt mưa Sài gòn. Nước con kinh dâng cao, chảy xiết như một dòng sông nhỏ ngay sát căn apartment của ông Tuyên.
Năm 1975, dân tị nạn Việt Nam được phân tán trên khắp nước Mỹ, nhưng chỉ vài năm sau đó, nhiều người dần dần rời bỏ các nơi lạnh lẽo, về lập nghiệp tại hai tiểu bang California và Texas. Có lẽ vì khí hậu ấm áp rất giống Sài gòn, nên Houston trở thành một trong những thành phố có đông người Việt Nam cư ngụ.
Ông Tuyên chế thêm trà vào tách cho bạn, từ từ tiếp câu chuyện:
– Bác biết không, chúng tôi nhờ ơn trên mới có được căn chung cư này. Đời sống dân tình ở đây thuần hậu lắm, giống như xóm đạo mình ở Biên Hòa ngày xưa đó.
Vừa lúc đó bà Tuyên đi ra, chào:
– Bác Chương ngồi chơi với Bố cháu, tôi đi ra nhà nguyện.
Ông Chương hơi ngạc nhiên:
– Nhà nguyện?
Hiểu được ý khách, ông Tuyên từ tốn trả lời:
– Bác ngạc nhiên là phải. Để tôi kể chuyện cho bác nghe.
Nhấp một ngụm trà, ông Tuyên nói tiếp:
– Lúc mới vào cổng khu chung cư này, Bác có thấy gì không ?
– Làng Joseph phải không? Tôi cũng hơi thắc mắc mà chưa có dịp hỏi.
– Đúng đấy bác ạ, khu chung cư này là một làng đạo Việt Nam. Ngay giữa Houston mà có một làng đạo Việt Nam, thế mới đặc biệt chứ.
Ông Tuyên trả lời, rồi tiếp:
– Chuyện thế này, khoảng năm 1985, 1986 gì đó, tôi cũng không nhớ rõ lắm, lúc đó kinh tế Houston bị khủng hoảng vì giá dầu thô giảm rất thấp. Từ lâu, Houston vẫn có biệt danh là thủ đô dầu hỏa, vì hầu hết các hãng dầu hỏa lớn trên thế giới đều có trụ sở ở đây. Chính vì vậy mà khi giá dầu xuống quá thấp, thì kinh tế Houston suy sụp nặng nề. Trước đó, nhờ kỹ nghệ dầu hỏa thịnh vượng, bà con mình làm ăn khá, mua nhà, mua cửa đẹp đẽ. Khi dầu hỏa xuống giá thì dân Houston rất khốn đốn, nhiều người bị thất nghiệp nên không đủ tiền trả nhà băng.
– Tôi nghe nói hồi đó bà con mình bị phá sản, bỏ nhà cho không các hãng nợ?
– Đúng vậy, ai may mắn thì có người vào ở nhà mình, tiếp tục trả món nợ cho nhà băng thì khỏi bị phá sản hay bị điểm xấu vì chạy nợ. Không phải chỉ có tư nhân mới bỏ nhà chạy nợ đâu, những chủ của các khu chung cư cũng vậy. Không có người thuê, chủ nhân các khu chung cư cũng bỏ hoang luôn và nhà băng tịch thu mang ra bán đấu giá.
Ông Tuyên chậm rãi, tiếp:
– Trong dịp này, một vị linh mục, cha Chỉnh, đã đứng ra gây quỹ mua luôn một khu apartment, rồi bán lại cho đồng bào từng đơn vị gia cư. Tôi không biết chi tiết việc này ra sao vì tôi đến sau, nhưng chỉ nghe được là Cha đã mua được với giá rẻ lắm. Lúc đó các căn chung cư dơ bẩn và xập xệ lắm vì đã bỏ trống một thời gian dài không tu bổ. Người mua phải tự sửa chữa lấy, nhưng cũng còn quá rẻ so với giá bình thường.
– Không biết giá cả như thế nào bác nhỉ?
– Tôi nhớ lúc đầu, căn một phòng ngủ chỉ chừng năm ngàn đô, căn hai phòng ngủ chừng tám hay chín ngàn gì đó, tùy theo tình trạng, chỉ cần sửa thêm một vài ngàn nữa là mình có một căn chung cư rất khang trang. Cũng nhờ cơ hội này mà nhiều người ở thuê, ở mướn, được có dịp làm chủ một căn nhà. Sau đó dưới sự sắp đặt của quí cha, chung cư được tổ chức lại thành Làng Joseph.
Nhắp thêm ngụm trà, ông tiếp:
– Quí cha giữ lại vài căn, cho người sửa chữa, làm Nhà Nguyện chung cho cả làng, từ đó có Nhà Nguyện. Mỗi ngày cứ khoảng 5 giờ chiều, có tiếng chuông nhắc bà con giờ cầu nguyện, thật là dễ thương và cảm động. Mỗi lần nghe chuông, tôi lại nhớ những ngày còn ở xóm đạo Biên Hòa. Tôi thích ở đây là vì thế.
– Ồ, thú vị quá nhỉ ! Thế ở đây có nhà thờ không, Bác?
– Ngay trong Làng thì không có nhà thờ, chỉ có nhà Nguyện. Nhưng nhà thờ Mỹ thì cũng không xa đây. Hồi nãy mình có đi xe ngang qua đó, cách đây chừng năm phút đi bộ. Chủ nhật chúng tôi vẫn thường đi bộ ra nhà thờ Mỹ. Nói là nhà thờ Mỹ nhưng các cha người Việt mình có giờ thánh lễ cho giáo dân Việt Nam. Mai tôi mời bác cùng đi lễ với chúng tôi. Nhà Nguyện là nơi chúng tôi tĩnh tâm hằng ngày, lúc nào cửa cũng mở cho bà con trong làng. Các cụ lớn tuổi hay ra đây cầu nguyện lắm, vì gần, không cần phải nhờ con cháu đưa đón.
– Đời sống như vậy thật là an bình bác nhỉ?
– Để tôi kể bác nghe. Tuy là tiện như vậy nhưng nhiều người cũng không thích ở đây lắm vì đời sống ở đây rất bình dân và có lẽ “quá” Việt Nam. Tôi thì quen rồi, đâm ra thích. Chắc tại mình già rồi. Chứ ai mà quá quen với đời sống Mỹ có lẽ thấy khó chịu. Căn phòng của chúng tôi ở cuối làng nên rất yên tịnh. Những căn ở giữa thì hay bị ồn ào hơn.
– Tôi có để ý lúc mới đến. Bà con mình ngồi ca hát trước cửa nhà vui ghê.
– Đúng rồi bác. Ở đây nhiều lúc giống hệt xóm lao động bên Sài gòn mình. Nhiều khi mình nghe một lúc hai, ba đài radio, cộng thêm TV Mỹ và nhạc CD hay có người còn hát Karaoke nữa. Cũng có lúc, bà con mình mang máy ra ngoài cửa để dễ bắt đài, hoặc là không đóng cửa, thì mình cũng nghe được luôn.
Ông Chương góp ý:
– Bác làm tôi nhớ hồi ở Sài gòn, các đài phát thanh thường khuyến cáo thính giả “vặn âm thanh vừa đủ nghe, kẻo làm phiền lòng hàng xóm.”
– Bác nói đúng. Hồi mới đến ở, tôi cũng hơi khó chịu. Sống trong chung cư Mỹ mình quen lề lối của họ, tôn trọng đời sống riêng tư của người khác tối đa. Thú thật với bác, hồi ở chung cư Mỹ, tôi không biết hàng xóm mình là ai, thậm chí chả biết họ là đàn ông hay đàn bà nữa, vì có mấy khi gặp gỡ chào hỏi gì đâu. Sáng đi làm, tối về đóng cửa, rút vào đời sống gia đình, không ai quan tâm đến ai, không ai làm phiền rộn gì ai. Sống như vậy buồn lắm. Trong chung cư này thì khác, bác ạ. Hình như ai cũng biết ai, không muốn biết cũng tự nhiên biết. Chào hỏi thân thiết như bà con.
– Nếu vậy thì thật là tốt cho người lớn tuổi, phải không bác?
Ông Tuyên bùi ngùi:
– Vâng, đúng vậy. Tôi nhớ hồi mới qua Mỹ, mẹ tôi đã già, ở trong chung cư Mỹ, bà như một người câm, vì không có ai nói chuyện cho khuây khỏa. Tụi tôi đi làm tối ngày, các cháu thì đi học. Bà Nội các cháu vì nhớ nhà, nhớ Sài gòn, cứ thui thủi một mình thật tội nghiệp. Có lẽ vì vậy mà Mẹ tôi mất sớm, chỉ mới ở Mỹ có ba năm thôi bác. Có lẽ Mẹ tôi mất sớm như vậy vì buồn bác ạ. Tôi nghĩ nếu hồi đó, có một nơi như vậy thì có lẽ Mẹ tôi vui lắm và còn sống thêm.
Ông Chương góp chuyện:
– Có lẽ cộng đồng Việt Nam mình cần có nhiều chung cư như Làng này, bác ạ. Tôi biết có nhiều cụ già sống như câm, như điếc trong các chung cư Mỹ. Con cháu phải lo đi làm, đi học, không có thì giờ săn sóc thường xuyên. Các cụ cần một môi trường sống tự nhiên như ở Sài gòn, như vậy các cụ sống vui thì sẽ mạnh khỏe, khỏi tâm bịnh.
– Tôi nghĩ cha Chỉnh đã tạo ra một hình thức làng Việt Nam rất thành công, rất hữu ích. Đồng ý là mình không sống quá xa cách với phong tục Mỹ vì dù sao mình cũng đang sống trên đất Mỹ. Nhập gia tùy tục, tôn trọng đời sống riêng tư cũng có nhiều cái hay, nhưng người Việt Nam già rất cần một chỗ như Làng này, bác ạ.
Nhắp một ngụm trà, ông Tuyên tiếp:
– Ở Cali và chắc là ngay ở đây cũng có những hội cao niên để các cụ giải trí, nhưng chưa được thành công và tự nhiên như đời sống ở đây, phải không? Tôi thấy ở Làng này mọi người sống gần gũi dễ thương như bà con họ hàng. Qui luật của Làng cũng khá nghiêm ngặt. Chúng tôi có thuê người canh gác để đề phòng trộm vặt. Tối đến, làng đóng bớt một cổng, mọi người và xe cộ chỉ qua một cổng, có người gác. Kẻ lạ mặt, do đó cũng sẽ e dè, không dám lộng hành.
– Thế ở đây ai cũng theo đạo Thiên Chúa giáo hết sao?
– Không phải đâu, chỉ đa số thôi bác ạ. Ai muốn vào mua cũng được, không phân biệt tôn giáo hay mầu da. Tuy nhiên, theo khuynh hướng tự nhiên, các bà con người Việt, Công giáo chiếm có lẽ hơn 90%, chắc vì “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” như ông bà ta vẫn nói.
Đưa tay chỉ bên phải của mình, ông Tuyên nói tiếp:
– Bà Dậu ở căn kế nhà tôi là người đạo Phật đấy bác. Gia đình con cháu của bà ở Tulsa, tiểu bang Oklahoma, nhưng cứ đến mùa đông thì bà ấy lại về đây tránh lạnh. Bà về đây ở một mình nhưng có nhiều bạn già nên vui lắm. Các cụ cũng trên dưới bảy mươi, hay tụ tập lại nhà bà Dậu để nói chuyện, đánh tam cúc, hay nấu nướng món này món kia rồi mời các cụ khác đến ăn.
– Thế bác có được mời qua ăn không?
– Có chứ bác, bà Dậu cho biết là bà ấy phải tìm việc mà làm cho bận tay bận chân, chứ ở không thì sanh bệnh. Riết rồi có người đặt bà làm bánh trái, chả giò … khi có tiệc tùng.
– Vậy thì lại có thêm tiền tiêu, bác nhỉ?
– Vâng, nhưng bao nhiêu tiền kiếm được, bà ấy cho hết vào chùa hay gởi về tặng người già neo, túng thiếu tại Việt Nam bác ạ. Chúng tôi cũng hay đặt chả giò của bà ấy vì vừa ngon lại vừa sạch sẽ. Nhờ bận rộn, lại kiếm được tiền giúp người khác, bà Dậu khỏe hẳn ra bác ạ.
– Thế mùa hè nhà bỏ trống sao bác?
– Không đâu bác, mùa hè, con cháu của bà ấy từ các nơi về đây chơi, rồi đi biển Galveston tắm. Tối tối, các cô cậu ấy lại đưa nhau đi vòng vòng các khu chợ Việt Nam uống cà phê. Các cô cậu ấy cũng hay ghé vào đây chuyện trò với chúng tôi.
– Mà sao tôi thấy nhà đóng cửa hết vậy, bây giờ không có ai ở sao?
Thấp giọng, Ông Tuyên buồn buồn đáp:
– Mới tuần trước, bà Dậu phải mổ tim và mất rồi bác ạ. Cả xóm đều thương tiếc.
Hai ông bạn đang ngậm ngùi thì có tiếng từ dưới sân vọng lên:
– Bác Tuyên ơi, xin lỗi bác, có bác gái ở nhà không?
– Bà nhà tôi đi xuống nhà nguyện rồi. Có chuyện gì không cô Ba?
– Con muốn hỏi bác gái có muốn đi chợ Hồng Kông 4 ngày mai không, con chở đi.
– Cám ơn cô, tôi sẽ nhắn lại với nhà tôi.
– Dạ, cám ơn bác.
Quay lại nhìn ông Chương, ông Tuyên tiếp:
– Đời sống như vậy đó bác, y hệt xóm mình ngày xưa ở Biên Hòa. Mấy cô cậu trẻ ở đây lái xe ào ào. Tụi mình già rồi, chừng nào muốn đi đâu mình nhờ họ chở, chỉ cần trả họ chút tiền xăng nhớt cho vui và như vậy mình cũng đỡ ngại khi nhờ họ.
– Tiện quá hả bác?
– Vâng, tiện lắm bác, có nhiều cô cậu đi làm ca đêm, nên ban ngày họ rảnh, nhất là cuối tuần. Thay vì đi xe buýt, phải đổi hai, ba lần, hoặc thuê tắc xi thì ngôn ngữ bất đồng, lại rất đắt, các người già trong này nhờ họ. Cô Ba này có chiếc xe Lexus mới toanh đó bác. Chừng nào cần đi bác sĩ, nha sĩ, chúng tôi cũng nhờ cô ấy chở đi giúp. Này nhé, lưỡng lợi cả đôi bên, các cô cậu ấy chỉ việc chở mình đến đó rồi họ đi công việc của họ, đến lúc mình xong thì họ đến đón mình về.
– Vậy thì khỏe thật bác ạ.
– Vâng, có bữa các bà trong xóm muốn đi shopping thì cô Ba cũng đi luôn, mỗi bà trả cho cô ấy 15 đồng, đi suốt cả buổi, chừng nào các bà mua bán xong, cô ấy lại chở về. Còn nếu cô ấy bận việc không chở được, thì có cậu Hùng chở đi, cậu này thả các bà xong là vào rạp xi nê coi phim. Đôi bên cùng vui vẻ, mình được ngồi nhà, khỏi theo các bà vào chợ, vào shopping.
– Thế các cô các cậu ấy có chở giùm đi lo giấy tờ gì không bác?
– Có đấy ạ, khi cần lo việc như thi quốc tịch, hay giấy tờ an sinh xã hội, các cô cậu ấy cũng đưa đi, và làm thông dịch luôn cho các cụ, và chi phí cũng rất là khiêm nhường, đâu như chỉ khoảng 50 dollars thôi.
– Vậy thì tốt quá hả bác. Các cụ vừa thoải mái, vừa không phải phiền hà đến con cháu, vì ở xứ này con cháu đi làm mà cứ phải xin nghỉ để đi lo việc cho cha mẹ, ông bà cũng phiền, nhất là dạo này bao nhiêu là công ty lay-off nhân viên.
– Đúng thế, bác ạ, những tiện nghi này rất là thực dụng. Các cụ đôi khi cũng không muốn tùy thuộc quá nhiều vào con cháu. Nhờ các cô cậu hàng xóm trẻ này chở đi đây đi đó, cái tình thân vẫn có, nhưng ơn nghĩa giảm đi nhiều, vì dù sao các cụ cũng trả thù lao cân xứng.
– Thế nếu khi nào các cụ bà chỉ cần vài thứ lặt vặt, cũng phải nhờ người chở đi chợ xa sao bác?
– Không bác ạ. Ngay trong làng này cũng có một tiệm tạp hóa nhỏ, nhưng bán đủ thứ cần dùng hàng ngày cho dân trong làng. Tiệm nằm ngay giữa làng nên rất tiện cho mọi người. Gạo, nước mắm, rau cải, mì gói, thuốc đánh răng, dầu cù là … hầu như đủ cả. Ai cần mua nhiều mới phải đi xa, chứ nếu cần ít thì chỉ đến đấy. Để tôi dẫn bác đi bộ một vòng trong làng rồi mình ghé vào tiệm ấy cho bác coi.
Rẽ qua một con đường nhỏ trong xóm, ông Tuyên giải thích với bạn:
– Tôi thích đi bộ trong xóm bác ạ. Sáng đi vài vòng, tối ăn cơm xong lại đi tản bộ với nhà tôi, vừa tập thể dục lại vừa chào hỏi bà con lối xóm. Sáng mai bác sẽ thấy các Cụ tập tai-chi ngay bãi đậu xe, hay có người lại đi bộ theo con kinh này, vui lắm.
Ông Tuyên đưa tay chỉ ra bờ nước, tiếp:
– Lúc này người ta rào lại, không cho xuống bờ nữa, chứ ngày trước mình có thể xuống đi dọc theo hai bên bờ con kinh này đấy bác.
Ông Chương tò mò:
– Tại sao vậy bác?
– Giản dị thôi, một phần vì sợ các cháu nhỏ ra chơi rồi nhỡ trợt chân té, một phần vì không muốn dân làng xuống đó trồng rau muống, bác ạ.
– Ủa sao lạ vậy ? Sao lại không cho trồng rau muống?
Ông Tuyên vẫn từ tốn, tủm tỉm cười:
– Bà con Việt Nam mình vẫn hay có sáng kiến lạ. Hồi đầu, bên rạch nước là bờ cỏ xanh. Thay vì cắt cỏ, bà con ta làm đất trồng rau cải, hành, ớt … vừa khỏi cắt cỏ lại vừa có rau tươi để ăn.
– Thế tại sao ai lại cấm trồng rau muống?
– Bà con ta, thấy trồng rau muống trên khô mà đã tốt đến thế, nên lại thả luôn giống rau muống xuống nước. Rau muống gặp nước phát triển quá độ, bà con ta vừa ăn, vừa biếu cũng không kịp. Ngặt nỗi là rễ rau muống lan nhanh làm nghẹt hết kinh rãnh, thế là xóm khác bị lụt. Họ khiếu nại, nên thành phố phạt chung cư này, bắt rào lại và cấm trồng rau muống.
Ông Tuyên đưa tay lên gãi đầu, rồi tiếp:
– Tôi cũng không biết có phải vì vụ này hay là do từ đâu mà sau này những nơi trồng rau muống nước đều bị cấm ngặt.
– Như vậy là hết rau muống để ăn hả bác?
Ông Tuyên trấn an bạn:
– Dân Bắc kỳ chúng mình mà không có rau muống làm sao sống nổi, Bác. Ngoài chợ vẫn có bán đấy chứ, nhưng rau muống bây giờ là loại rau trồng trên cạn, có nơi lại trồng cả trong nhà kính vào mùa lạnh, nên ta có rau ăn quanh năm. Cọng rau không được mềm như rau muống nước bác ạ. Bác đừng lo, tối này nhà tôi sẽ mời bác dùng cơm với rau muống luộc và cà pháo.
Ông Chương cười lớn:
– Xứ Mỹ này có nhiều cái rắc rối bất ngờ. Chắc họ cũng có lý do của họ. Thôi thì cứ nhập gia tùy tục, bác nhỉ?
– Vâng, thì phải vậy. Mà này bác, bác còn thích đánh chén với tiết canh heo không?
Ông Chương ngạc nhiên:
– Ở đâu mà có món ăn quốc hồn quốc túy đó? Từ hồi qua đây tôi có thấy bao giờ đâu bác.
Ông Tuyên cười, bí mật:
– Món ngon quốc hồn quốc túy nào ở đây cũng có cả. Trong làng, thỉnh thoảng họ chung nhau lên mấy trại nuôi súc vật ở đây, mua nguyên con bò, con heo làm thịt tươi, rồi lấy huyết làm tiết canh. Tôi nghe nói bên làng Thái Xuân họ còn làm heo ngay tại trong làng nữa. Không biết có đúng không.
– Làng Thái Xuân! Bác vừa nói có làng khác nữa à?
– Vâng, tôi quên chưa nói với bác là sau khi làng Joseph này lập ra và thành công, thì có nhiều nhóm cũng bắt chước lập ra nhiều làng tương tự. Ngay bên kia đường có làng Đà lạt. Làng Thái Xuân cách đây chừng năm phút lái xe. Nghe nói bên làng Thái Xuân có nhiều anh em H.O. lắm và tinh thần Việt Nam cũng không thua gì làng Joseph này bác ạ. Tuy nhiên hình như chỉ có làng Joseph này là có vẻ “xóm đạo” nhất. Không biết có phải vì do cha Chỉnh lập ra mà được như thế không nữa.
Ông Chương lại thắc mắc:
– Thế Làng có tổ chức quản trị gì đặc biệt không, bác?
– Có chứ ạ. Ban quản trị làng do bà con bầu ra để lo việc chung của làng như bảo trì, đổ rác, điện nước … Ngoài việc đó, ban quản trị còn lo các việc đặc biệt như hội hè, đình đám, quan hôn, tang tế … trong làng. Các ngày lễ lớn như Tết nguyên đán, Trung thu, Giáng sinh … ở đây vui lắm. Tết thì giống như ở Việt Nam ta, pháo nổ đón Xuân đêm giao thừa.
Ông Chương ngắt lời bạn:
– Đốt pháo ban đêm như vậy mà cảnh sát không làm khó dễ sao, Bác?
Ông Tuyên từ tốn:
– Mình xin được giấy phép của thành phố cho đốt pháo mới dám đốt, chứ bác. Cảnh sát còn đến giữ trật tự cho dân làng đốt pháo, vì Houston cấm đốt pháo, nếu không có giấy phép.
Ông Chương gật gù:
– Thế thì hay thật đấy, Bác. Mà bác này, nãy giờ mình bách bộ tôi thấy có vài người Mỹ. Họ cũng ở đây hả bác?
– Vâng, đấy là con dâu, con rể, cháu ngoại, cháu nội … của các cụ trong Làng. Nhiều cô cậu cũng nghe và nói được tiếng Việt mình đấy bác ạ. Tôi thấy họ cũng có vẻ thích đời sống ở đây lắm.
Chỉ tay vào vài đứa bé đang ngồi chơi cuối dãy, ông Tuyên nói tiếp:
– Bác thấy các cháu nhỏ kia không. Các cháu lai nửa Mỹ, nửa Việt mà đang nói tiếng Việt rành rẽ như vậy đó.- Ồ, các cháu dễ thương quá.
Vừa lúc ấy, bà Tuyên ở nhà Nguyện đi về, đám trẻ bu lại chào hỏi. Một cô bé da trắng hồng nắm lấy áo bà, hỏi:
– Hi Bà Ngoại, Can Jennifer play?
Bà Tuyên cúi xuống, vuốt đầu đứa bé:
– Chào bé Ann. Để bà coi nhé.
Rồi bà nói vọng lên trên lầu với cô cháu ngoại:
– Jennifer ơi, bé Ann rủ con chơi này.
Cô cháu gái chạy xuống lầu, rồi nhanh nhẩu đáp:
– Thank you, Grandma.
Vừa nói cô bé vừa chạy theo chơi đùa với bạn. Ông Chương chưng hửng trước cảnh này. Bầy nhỏ và bà Tuyên nói mỗi người một thứ tiếng, mà ai cũng hiểu nhau. Sự thông đạt không cần ngôn ngữ. Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của bạn, ông Tuyên giải thích:
– Ở đây, mấy đứa bé chơi với nhau thường lắm. Chúng đến chơi với cháu Jennifer hoài nên quen biết. Chúng theo Jennifer, gọi nhà tôi là “Bà Ngoại”, Bà nhà tôi cũng thương chúng như thương Jennifer. Có gì cũng san sẻ với chúng. Bà nhà tôi nói tiếng Việt, chúng không nói rành, nhưng hiểu hết. Mà bà nhà tôi, dù không nói tiếng Mỹ với chúng nhưng lại cũng hiểu chúng nói gì. Đúng là sự truyền đạt không cần ngôn ngữ. Bác đồng ý không?
Ông Chương gật đầu:
– Đúng vậy, tôi nghĩ sự đạt thông tư tưởng sâu xa chính là sự cảm nhận chứ không phải ngôn từ. Cảm nhận bằng tình thương là sự cảm nhận và cảm thông tuyệt diệu nhất.
Dừng lại bên cây đu đủ đầy trái, ông Chuơng nói tiếp:
– Tôi nghĩ rằng môi trường sống trong làng này cũng có ít nhiều ảnh hưởng tốt đẹp đến sự sống hòa đồng của dân làng. Chẳng biết bao giờ mình mới có cơ hội trở về sống lại nơi quê mình ở Biên Hòa, nhưng ở xứ Mỹ mà được sống hài hòa như nơi đây cũng là nhờ ơn trên nhiều lắm. Cây đu đủ này của ai bác nhỉ?
– Của bà Dậu trồng đấy bác ạ, nhưng ai muốn dùng thì cứ việc tự nhiên, để tôi hái một quả chín chốc nữa mời bác dùng tráng miệng.
Cầm quả đu đủ chín vàng trong tay, ông Tuyên ngậm ngùi:
– Tiếc quá, bà Dậu đã qua đời. Dù sao mình cũng cảm ơn Bà đã trồng cây này để bà con có trái ngọt quê hương. Thôi ta vào dùng cơm bác ạ, chắc nhà tôi đã nấu xong rồi ./.
Nguyễn Phục Hưng
July, 2004 (Truyện ngắn”Xóm Đạo Houston” này đã được trúng giải Đặc Biệt trong mục “Viết Về Nước Mỹ” năm 2004 của Việt Báo.)